Thiết kế P-15 Termit

Sau chiến tranh thế giới 2, Hải quân Liên Xô sớm nhận ra tiềm năng của tên lửa hành trình trong tác chiến trên biển. So với đại bác và ngư lôi, tên lửa có tầm bắn xa hơn nhiều. Đại bác cỡ nòng trên 150mm đều rất cồng kềnh, phải là tàu chiến cỡ lớn (choán nước vài ngàn tấn) mới gắn vào được, trong khi tên lửa thì nhỏ gọn hơn nhiều, tàu nhỏ cỡ vài chục tấn cũng mang được. Ngoài ra, đạn pháo và ngư lôi thời đó chỉ có thể bay theo đường thẳng nên rất khó đánh trúng mục tiêu di động ở cự ly xa, trong khi tên lửa thì có thể được điều khiển để chuyển hướng và đuổi theo mục tiêu.

Từ những phân tích này, Liên Xô đề ra ba chương trình tên lửa chống tàu được tiến hành song song, bắt đầu vào năm 1947 gồm: Kometa (NATO gọi là AS-1 Kennel) phóng từ trên không, Shchuka phóng từ biển và Shtorm phóng từ bờ.

Năm 1955, Liên Xô bắt đầu trang bị tên lửa cho các tàu hải quân nhỏ để thay thế cho ngư lôi. Ở cự ly khoảng 35 km, một tàu tên lửa cỡ nhỏ có thể phát hiện mục tiêu như tàu tuần dương sớm hơn 15 phút trước khi bản thân nó bị lộ diện do có diện tích bộc lộ radar (RCS) nhỏ, đồng thời người ta tính toán rằng xác suất bắn trúng của tên lửa vào mục tiêu cỡ tàu tuần dương sẽ cao hơn ngư lôi khoảng 10 lần.

Phiên bản đầu tiên của P-15 có cánh cố định. Thiết kế cơ bản của tên lửa là thân hình trụ, mũi tròn, hai cánh tam giác ở giữa hai bên thân và ba đuôi định hướng xếp thành hình tam giác. Ngoài ra nó còn một khoang nhiên liệu rắn để sử dụng trong quá trình tăng tốc. Thiết kế này lấy từ mẫu tiêm kích thử nghiệm Yak-1000 năm 1951. Loại tên lửa này phải đáp ứng được tiêu chí rẻ, có thể triển khai trên các tàu tên lửa thông thông thường. Các thiết bị điện tử trong tên lửa dựa trên thiết kế tín hiệu đơn giản với một cảm biến ra đa quét hình nón. Nó được sử dụng một động cơ tên lửa đáng tin cậy với nhiên liệu axít đặc biệt cho việc phóng. Tuy nhiên nhiên liệu lỏng này có vấn đề với nhiệt độ xung quanh nó không thể phóng khi nhiệt độ vượt ra ngoài giới hạn -15/+38 °C và nhiên liệu axít sẽ ăn mòn thân tên lửa nếu để quá lâu.[cần dẫn nguồn]

Trọng lượng của tên lửa là 2.340 kg, tốc độ tối đa là 0,9 mach (khoảng 300 m/s) và tầm bắn là 40 km. Tên lửa bay ở độ cao khoảng 150-300 mét, được duy trì bởi một máy đo độ cao và con quay hồi chuyển giai đoạn đầu, kết hợp với radar chủ động giai đoạn cuối.

Đầu đạn nổ phía sau thùng nhiên liệu, để khi đâm vào mục tiêu các nhiên liệu chưa cháy hết sẽ cộng hưởng với thuốc nổ để công phá mục tiêu, kể cả khi nhiêu liệu đã dùng hết thì thùng nhiên liệu vẫn đóng vai trò bắt cháy mục tiêu với lượng khí dễ bắt cháy còn lại trong thùng nhiên liệu. Đầu đạn hình phễu nặng 500 kg, lớn hơn các đầu đạn chống hạm thông thường khác. Việc phóng thường được sự hỗ trợ của hệ thống hỗ trợ tác chiến điện tử với ra đa Garpun gắn trên tên lửa để tìm mục tiêu trong khoảng cách 5,5 đến 27 km tùy vào thuộc tính của mục tiêu. Ra đa Garpun có thể dò ra và tiêu diệt một khu trục hạm trong khoảng cách 20 km.[cần dẫn nguồn]

Hệ thống cảm biến được kích hoạt khi cách mục tiêu 11 km tên lửa sẽ bắt đầu chúi xuống 1-2° để bắt đầu lao vào mục tiêu vì nó bay cao trên mực nước biển khoảng 120–250 m. Khoảng cách tối thiểu để cảm biến có thể hoạt động lái tên lửa vào mục tiêu ít nhất là 2,75 km. Năm 1958, một phiên bản hiện đại hóa mang đầu dò hồng ngoại Kondor được thử nghiệm. Đầu dò có tầm hoạt động 10 km vào ban ngày, 5 km ban đêm và có góc quét 2,5 độ.

Mẫu P-15U đã được giới thiệu vào năm 1965 với hệ thống điện tử được nâng cấp và thay cánh cố định bằng cánh gấp để có thể chứa trong các khoang chứa nhỏ hơn. Cùng với đó là mẫu P-15T với đầu dò hồng ngoại Snegir tiên tiến hơn so với Kondor. Mẫu dùng để xuất khẩu có tên tương ứng là P-21P-22 tùy vào hệ thống cảm biến được trang bị tên gọi chung cho các mẫu này là P-20M

Mẫu P-15M với nhiều tính năng mới ra mắt năm 1972, nó có radar tìm mục tiêu mới có khả năng chống nhiễu tốt hơn. Tên lửa sử dụng hệ dẫn đường quán tính giai đoạn đầu thay thế con quay hồi chuyển, tầm bắn tăng lên 85 km và độ cao hành trình được giảm xuống dưới 100m nhờ một radar đo cao. Phiên bản xuất khẩu của P-15M và P-15TM tương ứng là P-26 và P-27.